Tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng Miếu Trấn bắc Hòn Tranh

            Hòn Tranh là một đảo nhỏ cách Phú Quý 2km về hướng Đông Nam. Đây là một đảo tiền tiêu có rất ít cư dân sinh sống. Đã bao lần tôi đến đảo nhỏ Hòn tranh, nhưng lần này cảm xúc thật khó tả; mấy lần trước chỉ biết ngắm cảnh trời, non, nước và tranh thủ lưu giữ những hình ảnh đẹp. Lần này đến với đảo nhỏ Hòn tranh ngoài việc chiêm ngưỡng những phong cảnh đẹp chúng tôi lại có dịp khảo sát Miếu Trấn Bắc Quận Công Bùi Huy Ích (Bùi Tá Hán).

Từ xa, chúng tôi nhìn thấy Miếu Trấn Bắc nằm trên một ngọn đồi thoai thoải, hoang vắng, trầm mặc với bao mưa nắng của thời gian, thoắt ẩn, thoắt hiện dưới những rặng dừa và những cây bàng cổ thụ xanh ngát. Địa hình, cảnh quan nơi đây trong lành mát dịu, xen lẫn một chút tâm linh, huyền bí khiến chúng tôi không khỏi bâng khuâng, chạnh lòng.

                                                  Miếu Trấn Bắc Hòn Tranh

   Miếu Trấn Bắc được tạo dựng vào đầu thế kỷ XIX, quần thể Miếu hướng về phía Tây Nam đón gió biển và ánh nắng vàng dịu của chiều tà. Phía tả có thanh long (rồng xanh), bên hữu có Bạch hổ (cọp trắng) chầu phục. Phía sau miếu là ngọn đồi Huyền vũ (rùa đen), phía trước là Chu tước (sẻ đỏ), minh đường rộng bao la tạo thành một địa thế rất tốt trong mộ huyệt phong thuỷ âm trạch. Đây là một ngôi miếu nhỏ và không có cổng tam quan như ta thường thấy trong các di khác. Bên phải miếu là lăng mộ thờ 72 ông Nam Hải cùng “lụy” một lúc (theo tương truyền của người dân trên đảo, năm đó không biết vì lý do gì mà cùng một lúc có 72 con cá voi chết và trôi dạt lên đảo Hòn Tranh. Người dân địa phương đã làm lễ an táng, sau đó xây lăng tẩm và thỉnh ngọc cốt của 72 vị nói trên đưa vào thờ phụng).

Tẩm thờ 72 Ngọc cốt Cá voi

 Ngôi miếu này đã được trùng tu vào năm 1994. Phía trước là khoảng sân rộng lát gạch Bát Tràng. Ngôi miếu có lối bài trí đơn giản nhưng khá cổ kính. Phía trên phần nóc mái là dòng chữ “Miếu Trấn Bắc” và các chữ Hán ở phía trên: “Bắc trấn miếu - Thái bảo Phủ quân”. Nhưng đặt chân bước vào chánh điện, tấm hoành phi với ba chữ Hán “Hưng Đạo vương” sẽ đập vào mắt ta trước tiên bởi nó được treo ngay trên lối cửa ra vào. Trên bàn thờ Thần nằm ngay trung tâm chánh điện là hai bài vị của Bùi Quận Công và Nữ thần Thiên Y A Na và di ảnh Trần Hưng Đạo. Hai khám hai bên tả hữu thờ Tiền hiền và Hậu hiền. Nội dung bài vị của Bùi Quận công như sau: “Cung thỉnh Trấn Bắc quân Đô đốc phủ Chưởng phủ sự Thái bảo Bùi Quận công Thượng đẳng thần”. Tạm dịch: “Kính mời thần Thượng đẳng Bùi Quận công là Trấn Bắc quân Đô đốc phủ Chưởng phủ sự Thái bảo an vị”.

Vậy Trấn Bắc Bùi Quận Công là ai? Căn cứ vào bài vị có thể xác định “ông Trấn Bắc” vốn họ Bùi, giữ chức Đô đốc phủ Chưởng phủ sự Thái bảo Quận công. Theo Đại Nam Liệt truyện Tiền biên, tước vị Đô đốc phủ Chưởng phủ sự Thái bảo Quận công từng được ban cho Bùi Tá Hán. Và tên gọi “ông Trấn Bắc” là do nhân dân yêu mến đặt cho ông – người vốn rạng danh với công bình trị và khai phá vùng đất Quảng Nam vào thế kỷ 17. Bùi Tá Hán (1496-1568) là người huyện Chương Nghĩa thuộc Quảng Ngãi. Ông làm quan với triều Lê từ chức quan nhỏ địa phương (tức thổ quan) thăng dần tới chức Bắc quân Đô đốc phủ Chưởng phủ sự, Tổng trấn Quảng Nam, Thiếu bảo Trấn Quận công. Ông chú trọng ban ơn huệ, khoan hòa với quân dân và được trăm họ yêu mến.

Khám thờ Trấn Bắc, Hưng Đạo Đại Vương và Thiên Y A NA

Năm Mậu ngọ (1558) buổi đầu Thái tổ Hoàng đế (tức Nguyễn Hoàng) vào Nam trấn thủ Thuận Hóa, thường có giặc phía đông (quân nhà Mạc ở phía bắc Thuận Quảng) vào cướp. Ông đem quân Quảng Nam tiếp ứng, giặc không dám xâm phạm. Ông lại thường cầm quân đánh dẹp ác Man ở Đá Vách thuộc Quảng Ngãi. Dọc theo núi ông cho đặt sáu bảo để khống chế ngăn chặn, biên cảnh nhờ vậy được yên ổn. Ông là một trong những tướng lĩnh đứng vào hàng khai quốc công thần thuở ban đầu Nam tiến.

Năm Mậu thìn, Thái tổ hoàng đế thứ 11 (1568) ông mất, được tặng là Thái bảo. Về sau nhiều lần hiển hiện linh ứng, triều đình lệnh cho sở tại lập miếu thờ, ban cho áo mũ và đồ dùng thật để thờ cúng. Năm Minh Mạng thứ 13 (1834) gia phong là Khuông quốc Tĩnh biên Thụ đức Thượng đẳng thần. 

Tại Phú Quý có giai thoại kể lại rằng: Trong những đợt giao tranh với nghĩa quân Tây Sơn, những lúc bại trận Nguyễn Ánh cùng tướng lĩnh và binh sĩ thường bôn tẩu ra đảo Phú Quý để trú ẩn, miếu thờ Bùi Huy Ích là Đô Đốc tùy tướng bảo vệ Nguyễn Ánh, giúp cho Nguyễn Ánh trốn chạy khỏi Tây Sơn. Hiện nay, bên đảo Hòn Tranh còn lưu lại một số di tích liên quan đến Nguyễn Ánh và tùy tướng của Ông, trong đó có một giếng nước ngọt quanh năm mà người dân trên đảo quen gọi là giếng Gia Long để tưởng nhớ đến những tháng ngày Nguyễn Ánh cùng các tuỳ tướng của Ông đã từng lưu trú và sử dụng nước tại giếng này để phục vụ sinh hoạt.

Tổng thể Miếu Trấn Bắc gồm có các hạng mục như: Cổng chính, Chính điện, nhà Khói và lăng thờ thần Nam Hải (cá voi). Cách Miếu Trấn Bắc khoảng 200m về hướng Đông Nam có giếng Gia Long, giếng sâu 7m, được xây bằng đá san hô, thành giếng cao 80cm, đường kính 1,2m. Giếng có nước quanh năm và rất ngọt, trong khi các giếng kề cạnh đó nước có vị lợ không uống được. Lâu nay, giếng Gia Long là nguồn cung cấp nước ngọt để uống và phục vụ sinh hoạt cho các doanh trại quân đội đóng trên đảo Hòn Tranh.

Trong Miếu chạm khắc các câu đối chữ Hán Nôm. Xin trích dịch nội dung một câu đối như sau:

Thánh đức phù bang, ủng dũng thanh danh phong Trác vĩ

Thần công phụ thế, thông tri phổ đạt thưởng Tĩnh biên

Tạm dịch:

Đức thánh phò nước, uy dũng tuổi tên còn đó, xứng phong thần Trác vĩ

Công thần giúp đời, thấu suốt thông tường mọi lẽ, đáng thưởng bậc Tĩnh biên

Trên lọng khám hai bên đắp nổi một câu đối chữ Hán Nôm bằng vôi vữa:

Sinh vi tướng phù nguy vĩ các

Hóa tồn thần tế khốn nhân gian

Tạm dịch:

“Sinh là tướng phù nguy hết thảy

Thác thành thần cứu khổ nhân gian”

Các vua triều Nguyễn đã phong tặng cho Bắc Quân Đô Đốc 3 sắc phong và chỉ dụ cho ba làng Hội An, Triều Dương, Mỹ Khê thờ phụng. Trong đó có một sắc phong của niên hiệu vua Đồng Khánh năm thứ 2 phong cho Bắc Quân Đô Đốc và Nam Hải Cự Tộc Ngọc lân tôn thần. Tất cả các sắc phong đều được lưu giữ tại vạn An Thạnh, đến ngày cúng tế tại đền thờ Trấn Bắc mới tổ chức đoàn rước sắc phong từ vạn An Thạnh sang đền Trấn Bắc tế lễ và sau đó tổ chức rước trở về lại vạn để thờ phụng. Các đời vua triều Nguyễn đã phong sắc: sắc Tự Đức ngày 29 tháng 11 năm thứ 5, sắc Đồng Khánh ngày 01 tháng 7 năm thứ 2 và sắc Khải Định ngày 25 tháng 11 năm thứ .

Tại Miếu Trấn Bắc hàng năm thực hiện hai kỳ tế lễ chính vào ngày 12 tháng ba cúng Bà Thiên Ya Na (Bà Chúa Ngọc) và ngày mùng 7 tháng tám âm lịch cúng Ông Trấn Bắc. Trình tự các nghi thức tế lễ đều theo quy trình như lễ hội diễn ra tại Vạn An Thạnh. Do Miếu nằm bên đảo nhỏ hòn tranh nên ít người qua lại, cảnh vật hoang vắng, thâm nghiêm, huyền bí nhưng rất sạch sẽ, bởi lẽ nhiều ngư phủ sau mỗi chuyến biển dài ngày họ lại đến chiêm bái, cầu mong trời êm, biển lặng, mùa màng được bội thu.

Rời gót, khi bóng tà đã tịch liêu, hoàng hôn chầm chậm buông dưới ánh nắng vàng nhạt yếu dần, những con Nhạn biển lạc bầy kêu thảnh thót sau một ngày di trú kiếm ăn mệt mỏi tìm về chốn nghỉ. Ca nô rẽ sóng lướt đi, ngoảnh đầu nhìn lại miếu Trấn Bắc thoắt ẩn, thoắt hiện rêu phong, cổ kính trong màn đêm dần mờ ảo. Lòng mình cảm kích các bậc tiền nhân đã khai sơn, phá thạch, tạo dựng cơ đồ, tiếng thơm muôn thuở làm gương cho hậu thế phải phát huy, gìn giữ đến mai sau. Dòng chảy của lịch sử mãi không ngừng, các giá trị văn hóa sẽ dần mai một nếu như chúng ta không bảo tồn và phát huy di sản./.

Bài, ảnh: Lý Thơ
Tin liên quan
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tháng hiện tại: 1
  • Tổng lượt truy cập: 1
Đăng nhập
Designed by VNPT
ipv6 ready Chung nhan Tin Nhiem Mang